Meresci

Giáo trình điện tử
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
trong nghiên cứu khoa học

ULP

MỤC LỤC

Meresci > Kĩ thuật soạn thảo tài liệu khoa học > Quy tắc nhập liệu > Thuật ngữ và tên riêng tiếng nước ngoài
Giới thiệu giáo trình

Tác giả

Kiểm tra đầu vào

Phần 1. Các bước triển khai một đề tài nghiên cứu khoa học

Phần 2. Phương pháp tìm kiếm tài liệu tham khảo khoa học

Phần 3. Khai thác thông tin từ tài liệu khoa học

Phần 4. Phương pháp viết tài liệu khoa học

Phần 5. Kĩ thuật soạn thảo tài liệu khoa học 

Kiểm tra đầu ra

Phản hồi kết quả

Thư mục

Phần 5. Kĩ thuật soạn thảo tài liệu khoa học



Quy tắc nhập liệu

Thuật ngữ và tên riêng tiếng nước ngoài

Tình hình thực tế

Trong các vấn đề nổi cộm mà các nhà nghiên cứu ngôn ngữ tiếng Việt hiện nay cũng như các cơ quan các cấp quản lí, tổ chức xã hội - nghề nghiệp lẫn các nhà khoa học chưa tìm được tiếng nói chung, có lẽ quan trọng nhất là việc chuẩn hoá cách sử dụng tên riêng và thuật ngữ mượn từ tiếng nước ngoài.

Nguyễn Văn Khang (2003) đã liệt kê một số xu hướng thực tế sau đây:

  • Từ ngữ gốc Hán (chủ yếu là từ Hán Việt) chiếm khoảng 60-70 % vốn từ tiếng Việt hiện nay. Có ba khuynh hướng sử dụng từ ngữ Hán Việt chủ yếu:
    • vừa sử dụng vừa muốn chính xác hoá: phân biệt tiếp thutiếp thụ, dùng tháp nhập thay cho sát nhập, nói giúp đỡ người nghèo thay cho hỗ trợ người nghèo,...;
    • Việt hoá triệt để: loại bỏ hoàn toàn từ ngữ Hán Việt mà dùng hoàn toàn từ ngữ thuần Việt, như đàn bà hoặc gái thay cho phụ nữ, người bắn thay cho xạ thủ, lên thẳng thay cho trực thăng,...;
    • dung hoà cả hai yếu tố phạm vi tác dụng của từ ngữ Hán Việt và bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt: không truy nguồn gốc Hán Việt chính xác (tháp nhập, thống kế, chúng cư,...) của các từ ngữ đã quen dùng (sát nhập, thống kê, chung cư,...).
Về đầu trang
  • Từ ngữ gốc Âu-Mĩ: khác với từ ngữ Hán Việt, từ ngữ gốc Âu-Mĩ không tham gia hoạt động rộng rãi trong mọi lĩnh vực đời sống ngôn ngữ tiếng Việt cũng như không tham gia tạo từ tiếng Việt, mà chủ yếu có tính chất thuật ngữ, khoa học. Có các khuynh hướng sử dụng chủ yếu sau:
    • Việt hoá triệt để theo hướng âm tiết hoá tiếng Việt: chủ yếu các từ ngữ gốc tiếng Pháp và một ít tiếng Anh như săm, lốp, xích, líp, ga, kí ninh, cao bồi, cà phê,... cũng như các tên riêng,
      • cách này gặp phải những vấn đề về cách phát âm địa phương của người phiên chuyển, dẫn đến nhiều biến thể, thậm chí có những nghĩa tục tĩu, ngô nghê (World Cup = vôn cúp, uôn cắp, uôn cúp, vôn cắp, oăn cắp, oăn cúp, quơ cúp, quơn cúp,...; Ohm = Ôm; Joules = Giun/Run; Coulomb = Culông; Adis = A-đít; Beaumont = Bô-mông;...), hoặc nhầm lẫn tên gốc (Mác = Mac, Mach, March, Mars, Marc, Max, Marsch, Makh, Macht,...);
    • quốc tế hoá từ vựng tiếng Việt: nhập nội hoàn toàn nguyên vẹn các thuật ngữ tiếng nước ngoài, cả cách ghi lẫn cách đọc, dù hoàn toàn có thể có từ vựng tiếng Việt phù hợp (computer thay cho máy tính, almanach thay cho niên lịch, website thay cho trạm mạng, email thay cho thư điện tử hay điện thư, WTO đọc là "đấp liu ti âu" thay vì "vê kép tê ô", DNA đọc là "đi en ây" thay vì "đê en a",...),
      • cách này hợp lí đối với tên riêng,
      • với các thuật ngữ thì dễ "hội nhập quốc tế" nhưng cũng dễ "mất bản sắc tiếng Việt" vì nguy cơ bị lai căn, tạp nhiễm rất cao;
    • phiên chuyển từ vựng tiếng nước ngoài thành tiếng Việt: đây là giải pháp quen thuộc nhưng vẫn có những xu hướng khác nhau:
      • phiên chuyển theo âm đọc, có gạch nối và dấu phụ (bê-rê, mo-rát, xì-căng-đan, cà-phê, mít-tinh,...): giống như xu hướng "Việt hoá triệt để",
      • phiên chuyển theo âm đọc, không gạch nối (ô tô, cà phê, mít tinh, cao su,...): số lượng hạn chế,
      • phiên chuyển theo âm đọc, viết liền (caosu, đôla, canxi, xíchlô, sâmbanh,...): hình thức còn nhiều điểm chưa thống nhất.
Về đầu trang
  • Thái độ của người sử dụng tiếng Việt: nhiều người không quan tâm đến vấn đề ngôn ngữ, chỉ suy nghĩ đơn giản theo kiểu "biết thế nào thì dùng thế ấy", hoặc "theo sách báo, theo truyền hình". Và khi các nhà xuất bản, báo chí, truyền hình dùng sai tiếng Việt (viết sai, đọc sai, nói sai, dùng tiếng nước ngoài tràn lan không cân nhắc,...) thì càng làm cho vấn đề chuẩn hoá ngôn ngữ càng khó khăn, vì cái sai hoặc bất hợp lí lại trở thành thói quen phổ biến.

Nhận định

Chuẩn hoá tiếng Việt nói chung và chuẩn hoá cách dùng tiếng nước ngoài trong tiếng Việt nói riêng là vấn đề lớn mang tầm quốc gia, phải cân nhắc nhiều yếu tố lợi ích cả về xã hội lẫn về khoa học và ngôn ngữ. 

Xét riêng ở các nhà nghiên cứu khoa học, đại diện của những thành phần ưu tú nhất trong xã hội, có tiếp xúc thường xuyên với con người và thông tin khoa học trên khắp thế giới:

  • quan điểm "Việt hoá triệt để" tên riêng và thuật ngữ tiếng nước ngoài (khác tiếng Hán) bằng cách phiên theo âm đọc là không phù hợp với trình độ phát triển của khoa học cũng như đời sống xã hội;
  • quan điểm "quốc tế hoá từ vựng tiếng Việt" bằng cách nhập nội nguyên vẹn cách ghi và cách đọc nhiều từ vựng tiếng nước ngoài cũng không phù hợp cho sự phát triển của tiếng Việt và giữ được linh hồn tiếng Việt;
  • các quan điểm sau đây cũng không phù hợp với sự phát triển của tiếng Việt khoa học:
    • cứng nhắc (truy nguyên nguồn gốc một số từ đã quen dùng dù không hoàn toàn chính xác; không chấp nhận từ ghép giữa các từ thuần Việt hay từ mượn tiếng Âu-Mĩ với từ Hán Việt ;...),
    • thái độ "bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt" một cách cực đoan (không chấp nhận các phụ âm hay tổ hợp phụ âm không có trong tiếng Việt như f, z, j, w, bl, cr, str,...),
    • làm rườm rà về kĩ thuật (dùng dấu gạch nối giữa các từ ghép Hán Việt như triệt-để, nhập-nội, nguyên-vẹn,...),
    • dễ dãi chấp nhận tình trạng tự mâu thuẫn về quy tắc sử dụng ngôn ngữ (thường là trên các phương tiện thông tin đại chúng) hay cách tân, biến đổi thái quá theo những quan điểm thiếu cơ sở khoa học về ngôn ngữ (như đề nghị viết liền các từghép hay thuậtngữ để phânbiệt với các từđơn).
Về đầu trang
Trang trước Trang chính Trang sau
Tác giả @ Meresci - 2007 Cập nhật: 15/07/2007