Giới
thiệu giáo
trình
Tác
giả
Kiểm
tra đầu vào
Phần
1. Các bước triển khai
một đề tài nghiên cứu khoa học
Phần
2. Phương pháp
tìm kiếm tài liệu tham khảo khoa học
Phần
3. Khai thác
thông tin từ tài liệu khoa học
Phần
4. Phương
pháp viết tài liệu khoa học
Phần
5. Kĩ thuật soạn thảo
tài liệu khoa học
Kiểm
tra đầu ra
Phản
hồi kết quả
Thư mục |
Phần
3. Khai thác thông tin từ tài liệu khoa
học
Vấn đề
chuẩn hoá các quy tắc trình
bày tham khảo của Việt Nam
Danh mục tham khảo
Cấu trúc
chung
Hiện nay
các quy định hiện hành ở Việt Nam đa số đều
có xu hướng trình bày theo hệ thống
tác giả-năm. Tuy nhiên, hầu như chưa có
bản quy định nào quy định đủ chi tiết hoặc làm
rõ một cấu trúc chung mà một biểu tham
khảo cần có trong tài liệu khoa học
(mà không phải trong biểu ghi thư viện).
Một biểu
tham khảo được trình bày nhằm giúp
người đọc trả lời được các câu hỏi vắn tắt sau về
tài liệu được dẫn: Ai?
Khi nào?
Cái
gì? Ở
đâu?
Mỗi biểu
tham khảo luôn có nhiều dẫn tố, trong
đó có một số dẫn tố gom với nhau thành
từng nhóm. Ví dụ: các tác
giả; tựa và tựa phụ; nhà xuất bản và
nơi xuất bản; các thông tin ấn loát
(tập, số, trang).
Theo xu
hướng chung, hệ thống tác giả-năm ngày
càng trở nên phổ biến, trên nền tảng
các quy định của kiểu Harvard. Tuy nhiên, nhược
điểm lớn nhất của kiểu Harvard là dấu ngăn cách
giữa các nhóm dẫn tố rất "yếu" và không rõ ràng: tất cả các dẫn tố đều được ngăn
cách bằng dấu phẩy, kể cả trong cùng một
nhóm hay giữa các nhóm khác
nhau, thậm chí ngay bên trong một dẫn tố
(tên nhận diện và tên tắt).
Trong khi
đó, chuẩn ISO 690 quy định rất rõ là
cần có một sự ngăn cách "mạnh" (dấu chấm
và khoảng trắng) và rõ ràng
giữa các nhóm dẫn tố khác nhau, để
phân biệt với các dẫn tố thuộc cùng
nhóm.
Một vấn
đề khác là có quy định đặt năm xuất bản trong dấu ngoặc đơn.
Đây không
phải là quy định của kiểu Harvard. Việc sử dụng dấu ngoặc
đơn cho năm xuất bản không gây ra vấn đề
gì lớn, nhưng chỉ làm giảm độ đồng nhất của biểu
tham khảo và tăng sự phức tạp trong khâu kĩ thuật.
Căn cứ
các yêu cầu theo chuẩn ISO 690, có thể
trình bày một biểu tham khảo theo cấu
trúc chung, với ít nhất các
thành phần cơ bản theo thứ tự như sau:
Số thứ tự (chấm,
khoảng trắng) Tác
giả
(chấm, khoảng trắng) Năm
(chấm, khoảng trắng) Nhan
đề (chấm khoảng trắng) Cơ
quan xuất bản (phẩy, khoảng trắng) Thông tin ấn
loát (chấm) |
Giữa
các dẫn tố trong cùng nhóm sẽ
có những quy định riêng về cách viết
và dấu ngăn cách (sử dụng các dấu "nhẹ
hơn" như phẩy, chấm phẩy, hai chấm, gạch nối, ngoặc đơn), tuỳ loại
tài liệu cụ thể.
Đối với các dẫn tố cần chú thích thêm cho rõ thông tin gốc thì có thể bổ sung nội dung chú thích trong ngoặc vuông, ngay sau dẫn tố đó. Xem thêm trong quy định của chuẩn ISO.
Số thứ tự
Đánh
số thứ tự tăng dần
từ 1, và liên
tục cho đến hết danh mục, dù danh mục
có thể được chia thành nhiều phần khác
nhau. Số thứ tự nên được in
đậm.
Có
xu hướng đặt số thứ tự trong dấu ngoặc vuông, hoặc thụt
biên các dòng từ thứ hai trở đi
vào trong. Tuy nhiên, cách đơn giản
nhất về kĩ thuật, và đồng nhất trong toàn bộ biểu
tham khảo, đó là:
- dùng dấu chấm sau số thứ
tự;
- sau dấu chấm, thụt vào nửa tab (0,63 cm) khi tổng số
tài liệu nhỏ
hơn 100, thụt vào một tab (1,27 cm) khi tổng số
tài liệu từ
100 trở lên;
- sau dấu tab, cả
dòng đầu và phần còn lại của đoạn (paragraph/ paragraphe) được canh
biên trái bằng với vị trí tab.
Nhóm dẫn
tố tác
giả
Tác giả ở đây
là người chịu trách nhiệm chính về nội dung
của phần tài liệu được tham khảo (nếu tham khảo toàn
bộ một ấn bản, ví dụ sách, chuyên khảo, luận
án, thì cũng chính là tác giả của
tài liệu). Với
tác giả Việt Nam, họ và tên được viết
đầy đủ, không viết tắt. Với tác giả nước
ngoài, giữa các phần tên nhận diện (họ
- family name/nom de famille)
và tên tắt chỉ dùng một
khoảng trắng để ngăn cách. Tên nhận diện viết trước,
tên tắt viết sau (không có dấu chấm sau mỗi chữ viết tắt).
- Trường hợp tên tắt
có thể gây
nhầm lẫn với tác giả khác
thì ngay sau mỗi chữ tắt bổ sung phần chú
thích đầy đủ đặt trong ngoặc vuông
(không có khoảng trắng). Ví dụ: Pierre
V[éronique], Crane R[onald]S,...
Nếu
có từ hai tác giả trở lên, giữa hai
tác giả liền nhau cách nhau bằng dấu phẩy
và khoảng trắng. Dù tài liệu
có nhiều tác giả, phải ghi đầy đủ tất cả
các tác giả được liệt kê trong
tài liệu gốc.
- Có xu hướng sử dụng
liên từ "và" giữa hai tác giả sau
cùng. Tuy nhiên, cách dùng
này có thể gặp nhiều rắc rối khi sử dụng
các tài liệu tiếng nước ngoài: giữ
nguyên hay dịch "and"
(tiếng Anh), "et" (tiếng Pháp)
thành "và" trong mẩu trích dẫn
(bài viết) và trong danh mục tham khảo?
Nếu tác giả là một cơ quan/tổ chức, xếp
tên cơ quan/tổ chức đó theo chữ cái đầu tiên.
Nếu tài liệu không có tên tác giả
thì lấy nhan đề phần tài liệu được tham khảo lên
đầu, trước năm xuất bản. Có thể in đậm tên
tác giả nhằm làm nổi bật từng biểu tham khảo.
Dẫn tố năm xuất bản
Năm xuất
bản được viết bình thường với đầy đủ các chữ số,
tốt nhất là không có dấu ngoặc đơn để
đồng bộ với các nhóm dẫn tố khác,
và đơn giản hoá vấn đề kĩ thuật nhập liệu.
Nếu
cùng một tác giả hay nhóm
tác giả có nhiều tài liệu trong một
năm, liền sau năm xuất bản sẽ thêm các số thứ tự
a, b, c,... (chữ thường, đứng), theo trình tự thời gian tăng
dần giữa các tài liệu (nếu phân biệt
được), hoặc theo thứ tự trích dẫn trong bài viết,
hoặc theo thứ tự chữ cái của nhan đề.
- Một tác giả hoặc
cùng một nhóm tác giả:
- Một tác giả đứng đầu với
các (nhóm) tác giả khác
nhau:
Nhóm dẫn
tố nhan đề
Nhan đề ở đây là tựa của phần tài liệu được tham khảo.
- Nếu
tài liệu là ấn bản không liên tục (sách, chuyên khảo, báo
cáo kĩ thuật, luận án,...) mà những ý được
trích dẫn lấy từ toàn bộ tài liệu thì dẫn
tố này gồm tựa tài liệu (chữ nghiêng) và các thông tin ấn bản đi kèm:
- nếu có tựa phụ, viết cách với tựa chính bằng (khoảng trắng, hai chấm, khoảng trắng);
- nếu là tài liệu tái bản lần thứ n, viết "Ấn bản thứ n+1" sau tựa tài liệu tiếng Việt (cách bằng dấu chấm, khoảng trắng);
- với tài liệu tiếng nước ngoài, viết tắt số ấn bản bằng "Edn" (nguyên ngữ của tài liệu gốc);
- nếu sách có đánh số bộ, tập thì cũng ghi tương tự, với chữ viết tắt "T." cho "tập" và "Vol." cho "volume";
- với luận văn, luận án, báo cáo kĩ thuật,... viết kèm sau nhan đề tên cấp độ đề tài và số kí hiệu nếu có (cách trước bằng dấu chấm, khoảng trắng).
- Nếu phần tham khảo là một phần riêng biệt
trong sách, chuyên khảo, báo cáo hội nghị...
thì nhóm dẫn tố bày bao gồm hai phần: tựa của phần được tham
khảo và tựa của tài liệu (đi kèm với các
thông tin ấn bản).
- Sau tựa của phần được tham khảo là một dấu chấm và một khoảng trắng.
- Tiếp theo đó là "In" (chữ nghiêng, tài liệu tiếng nước ngoài) "Trong" (chữ đứng, tài liệu tiếng Việt) (hai chấm, khoảng trắng).
- Tiếp theo, nếu tài liệu có người chủ biên, thì viết tên chủ biên hoặc các chủ biên (phẩy, khoảng trắng).
- Viết tắt: "(chb.)" cho chủ biên của tài liệu tiếng Việt, "(ed.)" cho một người chủ biên của tài liệu tiếng nước ngoài, "(eds)" cho từ hai chủ biên trở lên, sau tên người chủ biên sau cùng.
- Tiếp theo là nhan đề của tài liệu chính (chữ nghiêng).
- Nếu phần tham khảo là sách, chuyên khảo thì nhan đề tài liệu chính là tựa sách (chữ nghiêng).
- Nếu phần tham khảo là một bài báo cáo hội nghị, nhan đề tài liệu chính là tên hội nghị (chữ nghiêng), nơi và thời gian diễn ra hội nghị.
- Nếu phần tham khảo là một bài báo, dẫn tố này chính là tựa bài báo.
- Kết thúc nhóm này bằng một dấu chấm và một khoảng trắng.
Nhóm dẫn
tố cơ quan xuất bản
Đây là cơ quan chịu trách nhiệm xuất bản nội dung tài liệu được tham khảo.
- Nếu tài liệu là sách,
chuyên khảo hay báo cáo hội nghị (được xuất bản):
nhóm dẫn tố này gồm Nơi xuất bản (hai chấm, khoảng trắng) Tên nhà xuất bản (bỏ hết các cụm từ "nhà xuất bản", "Inc.", "Ltd.",...).
- Nếu tài liệu là báo cáo
kĩ thuật, luận án,... thì nơi chịu trách nhiệm
xuất bản chính là trường hoặc cơ quan chủ quản của
tài liệu. Cách viết cũng tương tự: Nơi xuất bản (hai chấm, khoảng trắng) Cơ quan chủ quản.
- Nếu tài liệu là ấn bản liên tục
(định kì), nhóm dẫn tố này chỉ có một dẫn tố duy
nhất là tựa báo (chữ nghiêng, viết đầy đủ tựa gốc, không nên viết tắt).
- Kết thúc nhóm này bằng:
- một dấu chấm (và kết thúc biểu tham khảo) nếu phần được tham khảo là toàn bộ nội dung một ấn bản không
liên tục (sách, chuyên khảo, luận văn, luận án, báo cáo kĩ thuật,...)
- một dấu phẩy và một khoảng trắng trong các trường hợp còn lại.
Nhóm dẫn
tố thông tin ấn loát
Nhóm này chỉ
có mặt khi phần được tham khảo là một "bài" cụ thể
trong một ấn bản khoa học mà không phải toàn bộ nội
dung ấn bản đó.
Nếu tài liệu là ấn bản không liên tục, tiếp sau nhóm dẫn tố cơ quan xuất bản (cách bằng dấu phẩy, khoảng trắng):
- với tài liệu bằng tiếng Việt, có thể viết tắt "trang" thành "tr."; với tài liệu tiếng nước ngoài (biễu diễn bằng chữ Latin), viết tắt bằng "p." (không viết "pp.") và một khoảng trắng,
- tiếp theo là các số trang của phần được tham khảo,
- nếu các trang không liên tục, liệt kê số của các trang, cách nhau bằng dấu phẩy và khoảng trắng,
- nếu các trang liên tục, dùng dấu gạch nối (không có khoảng trắng nào) giữa trang đầu và trang cuối.
Nếu tài liệu là ấn bản liên tục, tiếp sau nhóm dẫn tố cơ quan xuất bản (tức tựa báo), cách bằng dấu phẩy và khoảng trắng:
- viết số (bỏ tất cả các phần "volume", "number", "issue", "p.",,...) của tập, số và trang theo cấu trúc: tập (ngoặc đơn mở, không khoảng trắng cả trước lẫn sau) số (nếu có) (ngoặc đơn đóng, hai chấm, khoảng trắng) trang đầu (gạch nối, không khoảng trắng cả trước lẫn sau) trang cuối (chấm hết biểu tham khảo);
- nếu ấn bản không đánh số "tập", chỉ có "số" thì cũng để "số" trong ngoặc đơn, bỏ dẫn tố "tập" đi;
- nếu ấn bản không đánh số "tập", "số", thay hai dẫn tố này bằng ngày và tháng phát hành (bằng nguyên ngữ của tài liệu gốc);
- nếu là bài báo trong số
chuyên đề, không thuộc hệ thống phát hành
định kì thông thường, cũng viết tương tự, với số hiệu
chuyên đề thay cho vị trí "tập" hoặc "số" tương ứng,
và số trang phải ghi theo đúng kí hiệu của
chuyên đề.
Nói chung, đây chỉ là những gợi
ý có tính chất tổng quát, giúp nhận
diện dễ dàng các nhóm dẫn tố trong biểu tham khảo
của một tài liệu.
Để áp dụng, nhà nghiên cứu cần tham
khảo trước tiên các quy định của cấp quản lí trực
tiếp. Khi gặp những trường hợp mà các quy định đó
không cho phép biết chính xác quy tắc,
thì có thể áp dụng các quy tắc ở
đây (có tính đồng nhất cao), để phân
tích và có một lựa chọn hợp lí.
|