Giới
thiệu giáo
trình
Tác
giả
Kiểm
tra đầu vào
Phần
1. Các bước triển khai
một đề tài nghiên cứu khoa học
Phần
2. Phương pháp
tìm kiếm tài liệu tham khảo khoa học
Phần
3. Khai thác
thông tin từ tài liệu khoa học
Phần
4. Phương
pháp viết tài liệu khoa học
Phần
5. Kĩ thuật soạn thảo
tài liệu khoa học
Kiểm
tra đầu ra
Phản
hồi kết quả
Thư mục |
Phần
3. Khai thác thông tin từ tài liệu khoa
học
Sắp
xếp và trình bày tham khảo
Danh mục tham khảo tài liệu in
Các
quy tắc chung
Danh mục tham khảo (reference list/liste de
référence) là một danh
sách tất cả các tài liệu có trích
dẫn tham khảo trong bài viết khoa học. Cần
phân biệt với "Thư
mục" (bibliography/bibliographie)
là một danh sách các tài
liệu dùng làm nền tảng để viết bài
nhưng không
có trích dẫn trong bài viết.
Chỉ
có các
tài liệu được trích dẫn trong bài viết
mới
có mặt trong danh mục tham khảo, và ngược lại tất
cả
tài liệu có trong danh mục tham khảo phải
có
trích dẫn trong bài viết.
Danh mục
tham khảo
(và trích dẫn tham khảo) trong tài
liệu khoa học
phải tuân theo những quy tắc hết sức nghiêm ngặt,
chi tiết,
để đảm bảo tính chính xác
và trung thực về
mặt khoa học.
Mỗi loại
tài liệu có cách trình
bày tham khảo khác nhau, tuỳ mỗi hệ thống
(cùng với các quy định trích dẫn tham
khảo).
Cần tham khảo chi tiết các quy định mà cấp quản
lí
trực tiếp đang áp dụng cho đề tài của
mình.
Cấu trúc
chung của biểu tham khảo
Dù
có nhiều hệ thống quy định khác nhau, nhưng biểu
tham khảo (bibliographic
record/notice
bibliographique) của mỗi hệ thống đều có những
cấu trúc chung như sau:
- thành
phần dẫn tố: mỗi biểu tham khảo phải có đủ
các dẫn tố (reference
element/élément
de référence) cơ bản, ít
nhất là để nhận diện được rõ ràng
nguồn gốc tài liệu:
- tác giả: là
cá nhân
hoặc tổ chức chịu trách nhiệm chính về nội dung
phần
bài được sử dụng,
- tựa bài/nhan đề: tựa
bài
báo hoặc chương/phần sách, nhan đề
sách/báo
cáo/luận án,
- cơ quan xuất bản: tựa
báo, tên
nhà xuất bản (thường đi kèm với nơi xuất bản),
tên
hội nghị và đơn vị tổ chức (hội nghị khoa học), đơn vị
đào tạo/nghiên cứu (đối với báo
cáo kĩ
thuật, luận văn/luận án),
- năm xuất bản: năm chính
thức xuất bản
tài liệu (có lưu chiểu), đối với hội nghị
(không
công cố) hoặc luận văn/luận án/báo
cáo kĩ
thuật là năm tổ chức báo cáo,
- thông tin ấn
loát: nếu là báo/tạp chí
thì có tập (volume),
số (number (issue)/numéro),
trang đầu và trang cuối, nếu là sách
thì là tổng số trang hoặc các trang
được tham khảo,
- các thông tin
khác: như
tên tủ sách chuyên đề hoặc ấn bản
liên tục, số
hiệu ISBN (sách), tên chuyên
ngành và
cấp độ của luận văn/luận án, số hiệu nhận diện
báo
cáo kĩ thuật;
- dấu
phân cách: các dẫn tố của
một biểu tham khảo được phân cách bằng một dấu
hiệu thống nhất:
- kiểu Vancouver: dấu chấm
và một khoảng trắng,
- kiểu Harvard: dấu phẩy và
một khoảng trắng,
- chuẩn ISO: dấu chấm và
một khoảng trắng,
- một biểu tham khảo kết
thúc với chỉ duy
nhất một dấu chấm (nếu có dấu chấm của chữ viết tắt sau
cùng thì đó cũng là dấu kết
thúc
biểu tham khảo);
- ngôn
ngữ trình bày:
- tài liệu sử dụng chữ viết
Latin thường
giữ nguyên ngôn ngữ gốc của tài liệu để
trình
bày các dẫn tố trong biểu tham khảo,
- các tài liệu
bằng các
ngôn ngữ không dùng chữ viết Latin
thì
dùng cách chuyển ngữ tựa/nhan đề tài
liệu theo quy
định cụ thể, và chú thích trong ngoặc
vuông
(bằng ngôn ngữ trình bày bài
viết) về
ngôn ngữ dùng trong tài liệu gốc.
Các kiểu
danh mục tham khảo
Có
rất nhiều kiểu trình bày danh mục tham khảo
khác
nhau, tuỳ mỗi nước, mỗi lĩnh vực, thậm chí mỗi cơ quan
có
trách nhiệm quản lí khoa học trong phạm vi của
mình. Tuy nhiên, có thể liệt
kê ba hệ thống
lớn: kiểu Vancouver, kiểu Harvard (hay hệ tác giả - năm), hệ
ISO. Các kiểu khác hầu hết là
phái sinh từ
ba hệ này.
- Kiểu
Vancouver: kiểu trình bày
này đi kèm với cách trích
dẫn theo
thứ tự trích dẫn, các đặc điểm
chính là:
- danh mục trình
bày theo thứ tự trích dẫn trong bài
viết;
- số thứ tự trong danh mục tương ứng với
thứ tự trích dẫn;
- các nhóm
thông tin theo thứ
tự: tác giả, tựa/nhan đề, nơi xuất bản và cơ quan
xuất
bản (hoặc tựa báo), năm xuất bản, thông tin ấn
loát, phân cách giữa các
nhóm bằng
"một dấu chấm và một khoảng trắng";
- tên chính của
tác giả viết
trước, các tên còn lại viết tắt ngay
sau,
cách bằng "một khoảng trắng", không có
dấu chấm
trong tên tắt;
- phân cách giữa
các tác giả bằng "một dấu phẩy và một
khoảng trắng";
- với sách, nơi xuất bản nằm
trước cơ quan
xuất bản, theo sau là năm xuất bản, cách bằng
"một dấu
chấm phẩy và một khoảng trắng";
- với báo/tạp chí,
tựa báo
cùng nhóm với năm xuất bản và
thông tin ấn
loát: tựa báo cách năm xuất bản bằng
một khoảng
trắng, năm xuất bản cách thông tin ấn
loát bằng một
dấu chấm phẩy (từ dấu này trở đi, giữa
các dẫn tố đều không có khoảng trắng),
sau đó là tập xuất bản, nếu có số xuất
bản
thì đặt trong ngoặc đơn liền sau, tiếp theo là
trang đầu,
dấu gạch nối và trang cuối).
- Kiểu
Harvard:
kiểu này đi kèm với cách trích
dẫn theo tác giả - năm, với các đặc
điểm chính:
- danh mục tham khảo được xếp theo thứ
tự chữ cái tên
tác giả (với các tác giả phương
Tây là family
name/nom de
famille), không cần đánh số thứ tự;
- thứ tự các dẫn tố trong
biểu tham khảo:
tác giả, năm, tựa/nhan đề và tựa phụ (nếu
có với
sách), cơ quan xuất bản và nơi xuất bản
(sách)
hoặc tựa báo, thông tin ấn loát;
- giữa tên chính
của tác giả
và tên tắt cách nhau bằng "một
dấu phẩy
và một khoảng trắng", không có dấu chấm
trong
tên tắt,
- giữa tên tác giả
và năm
cách nhau bằng "một khoảng trắng", phân
cách giữa
tất cả các dẫn tố còn lại bằng "một dấu phẩy
và
một khoảng trắng";
- dùng chữ in
nghiêng hoặc gạch chân với tựa sách,
tên hội nghị, tựa báo;
- tựa bài báo,
luận án,
bài báo cáo, phần/chương
sách được đặt
trong một cặp dấu nháy ('tựa
bài');
- với sách, nơi xuất bản nằm
sau nhà xuất bản;
- các chữ viết tắt thường
dùng: (eds)
cho các chủ biên, (ed.)
cho chủ biên,
edn
cho lần xuất bản, vol.
cho tập, no.
cho số, p.
cho trang, pp.
cho các trang;
- với ấn bản tập thể, mỗi tác
giả/nhóm
chịu trách nhiệm một phần/chương, nếu tham khảo
toàn
bộ thì tác giả tài liệu ghi trong biểu
tham khảo
chính là (những) người chủ
biên,
- nếu chỉ tham khảo một phần/chương của
ấn bản tập
thể, thì tác giả của tài liệu ghi
trong biểu tham
khảo là (những) người viết bài đó, tựa
bài
là nhan đề phần/chương đó, theo sau là
một dẫn tố
bổ sung "in:
người chủ biên (ed.)," (nếu nhiều người
thì dùng (eds))
trước khi trích các dẫn tố tương ứng
còn lại của tài liệu.
- Chuẩn
ISO 690:1987:
chuẩn này do Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế (ISO) đưa
ra năm
1987, bao gồm cả những quy định theo hệ tác giả - năm hay
thứ tự
trích dẫn, với các yêu cầu cơ bản sau:
- thông tin về tài
liệu được
trình bày trong danh mục tham khảo được lấy chủ
yếu từ
trang nhan đề (hoặc tương đương) của tài liệu, và
chỉ khi
tài liệu không có trang này
thì lấy
thông tin từ các phần khác như
bìa
tài liệu;
- phần tên phụ của
tác giả có
thể được viết tắt bằng chữ cái đầu với điều kiện
không
gây nhầm lẫn khi nhận diện;
- các dẫn tố trong biểu tham
khảo phải được phân chia bằng các
dấu phân cách
thống nhất, rõ ràng, giúp
phân biệt được
các giữa nhóm dẫn tố và các
dẫn tố trong
cùng nhóm;
- các kiểu định dạng như in
nghiêng, in
đậm, gạch chân có thể được dùng để
làm nổi
bật những dẫn tố quan trọng;
- có thể bổ sung
vài yếu tố
khác trong biểu tham khảo để chú
thích, minh hoạ
khi thông tin gốc mù mờ hoặc có thể
gây hiểu
nhầm, thường là đặt dẫn tố bổ sung trong ngoặc
vuông hay
ngoặc đơn ngay sau dẫn tố được sửa.
Theo
đó, các ví dụ do bộ chuẩn
này đưa ra có đặc điểm:
- danh mục tham khảo trình
bày hoặc theo thứ tự chữ cái như kiểu Harvard,
hoặc theo thứ tự trích dẫn như kiểu Vancouver;
- khi trình bày
danh mục theo kiểu nào thì trích dẫn
theo kiểu đó;
- cách trình
bày thông
tin tham khảo cả trong trích dẫn và danh mục phải
thống
nhất với nhau.
|