Giới
thiệu giáo
trình
Tác
giả
Kiểm
tra đầu vào
Phần
1. Các bước triển khai
một đề tài nghiên cứu khoa học
Phần
2. Phương pháp
tìm kiếm tài liệu tham khảo khoa học
Phần
3. Khai thác
thông tin từ tài liệu khoa học
Phần
4. Phương
pháp viết tài liệu khoa học
Phần
5. Kĩ thuật soạn thảo
tài liệu khoa học
Kiểm
tra đầu ra
Phản
hồi kết quả
Thư mục |
Phần
3. Khai thác thông tin từ tài liệu khoa
học
Sắp
xếp và trình bày tham khảo
Trích dẫn tham khảo
Khái
quát
Một mẩu
trích dẫn tham khảo là một câu hay đoạn
văn được rút ra từ một tài liệu khác
để minh hoạ, bảo vệ quan điểm, ý kiến trong bài
viết của mình. Và điều bắt buộc khi
trích dẫn tham khảo một thông tin là
phải dẫn ra nguồn cung cấp thông tin đó. Điều bắt
buộc này không có ngoại lệ cho bất cứ
nguồn thông tin nào: sách,
bài báo, bách khoa thư, tài
liệu nghe nhìn, các trang web, v.v. cũng như loại thông tin nào: ý kiến, nhận xét, thảo luận, kết luận, hình ảnh, bảng số liệu,...
Có hai hình thức trích dẫn tham khảo.
Mẩu trích dẫn được gọi là
nguyên văn khi được sao chép lại như
nguyên bản trong tài liệu gốc. Còn nếu
nội dung trích dẫn dưới dạng diễn đạt lại thông
tin gốc bằng một cách khác mà vẫn đảm
bảo giữ nguyên ý nghĩa thì mẩu
trích dẫn đó được gọi là diễn ngữ (paraphrase). Cả
trong trích dẫn nguyên văn hay trích
dẫn diễn ngữ, tác giả hoặc nguồn tài liệu gốc đều
phải được ghi rõ ngay sau thông tin vừa dẫn.
Các
lí do trích dẫn
Ngoài
những lí do đã nêu trong phần mở đầu,
trích dẫn tham khảo còn có
ý nghĩa:
- tăng
giá trị đề tài nghiên cứu:
nhờ có đối chiếu, tham khảo, so sánh,... với
các nguồn tài liệu từ bên
ngoài, và thể hiện rõ nguồn gốc các
thông tin thu thập được, các phương
pháp được áp dụng, các ý
tưởng giúp định hướng, bổ sung, điều chỉnh quá
trình thực hiện đề tài,...;
- phát
triển năng lực nghiên cứu: nhờ quá
trình tìm kiếm và chọn lọc những
thông tin có chất lượng, giúp
làm tăng khả nặng tự học, tự tìm kiếm
thông tin và khai thác thông
tin;
- bồi
dưỡng ý thức đạo đức nghề nghiệp.
Các phương
pháp trích dẫn
Có
một số phương pháp trích dẫn sau đây:
- gọi cước chú: các đoạn
trích trong bài được đánh số
"gọi cước chú" (call
to footnote/appel
de note de bas de page), và
biểu chú dẫn (footnote/note de bas de page)
được ghi ngay dưới chân trang,
- thường dùng
trích dẫn nguyên
văn: số gọi chú dẫn nằm ngay sau dấu câu cuối
cùng
và trước dấu ngoặc kép đóng mẩu
trích dẫn,
- số gọi chú dẫn được treo
liền kề mẩu trích dẫn dưới dạng luỹ thừa, không
có ngoặc đơn,
- số gọi chú dẫn
có thể được đánh theo thứ tự trong từng trang hay
liên tục giữa các trang,
- biểu chú dẫn gọi lần đầu
hoặc lần duy nhất được ghi theo quy định trình
bày danh
mục tham khảo, có kèm theo số trang ở
sau cùng,
- khi gọi chú dẫn về một
tác giả đã dẫn liền trước đó, biểu
chú dẫn chỉ ghi "ibid."
(gốc Latin ibidem,
nghĩa là "ở chỗ đã chỉ ra trong mẩu
trích dẫn trước") và số trang, cách
nhau bằng dấu phẩy,
- khi gọi chú dẫn về một
tác giả
có một tài liệu đã dẫn rồi
(không liền
trước), biểu chú dẫn ghi tên tác giả
và "op. cit."
(gốc Latin opere citato,
nghĩa là "tài liệu đã dẫn"), dẫn số
trang sau cùng,
- khi gọi chú dẫn về một
tác giả
có nhiều tài liệu đã dẫn rồi, biểu
chú dẫn
ghi tên tác giả, tóm tắt nhan đề
tài liệu được dẫn
(hoặc năm xuất bản, tuỳ kiểu danh mục tham khảo)
và "op. cit.",
dẫn số trang sau cùng,
- tất cả các tài
liệu được trích dẫn đều có trong một danh mục
tham khảo cuối bài;
- gọi
hậu chú: một kiểu
khác của cách gọi cước chú,
- tất cả các biểu
chú dẫn được tập trung ở cuối bài,
- số thứ tự được đánh
liên tục,
- biểu chú dẫn được ghi theo
quy định trình bày danh mục tham khảo;
- kiểu
Vancouver (Vancouver
style):
đây là một kiểu truyền thống, đã sử
dụng từ rất
lâu trong các ấn bản khoa học, còn gọi
là
"hệ thống thứ tự trích dẫn",
- mẩu trích dẫn được
đánh số theo thứ tự trích dẫn trong
bài viết,
- số được đặt trong ngoặc đơn, liền sau
mẩu trích dẫn,
- nếu có nhiều tài
liệu được trích dẫn cho cùng một ý,
dùng dấu phẩy (không
có khoảng trắng) giữa
các số,
- nếu có dãy 3 số
liên tục trở lên thì dùng dấu
gạch nối (không có
khoảng trắng) giữa số đầu và số cuối của dãy,
- các tài liệu
có trích dẫn trong bài viết được xếp
trong danh mục tham khảo cuối bài, theo đúng thứ
tự trích dẫn,
- biểu tham khảo (bibliographic record/notice bibliographique)
được ghi theo quy định riêng của kiểu
Vancouver.
- kiểu
Harvard (Harvard style):
đây là một kiểu trích dẫn đang được sử
dụng
ngày càng phổ biến, còn được gọi
là "hệ
thống tác giả - năm"),
- danh mục tham khảo kiểu
Harvard được xếp theo thứ tự chữ cái tên
tác giả (với các tác giả phương
Tây là family
name/nom de
famille), không cần đánh số thứ tự,
- mẩu trích dẫn được
chú thích
liền phía sau bằng tên tác giả
và năm xuất
bản tài liệu, trong ngoặc đơn,
- nếu mẩu trích dẫn kiểu diễn
ngữ với
tên tác giả là một thành
phần trong
câu, năm xuất bản của tài liệu đó sẽ
được đặt trong
ngoặc đơn liền sau tên tác giả,
- nếu một tài liệu của một
tác giả,
ghi tên tác giả (không ghi phần
tên viết tắt)
trong ngoặc đơn và năm xuất bản, cách nhau bằng
khoảng
trắng (không có dấu phẩy), nếu cần thì
chỉ
rõ số trang,
- nếu mẩu trích dẫn
có nguồn gốc
từ một tác giả A, nhưng không đọc trực
tiếp
tác giả A mà biết
thông qua tác giả B, ghi trong ngoặc đơn
tên
tác giả A và năm xuất bản tài liệu của
tác
giả A (không được đọc trực tiếp), đi kèm theo sau
bằng "in: "
cùng với tên và năm xuất bản của
tác giả B (được đọc trực tiếp),
- nếu một tài liệu của hai
tác giả,
ghi tên hai tác giả trong ngoặc đơn, nối bằng dấu
"&",
và năm xuất bản sau tên tác giả thứ
hai,
không có dấu phẩy,
- nếu một tài liệu của ba
tác giả, lần
đầu tiên trích dẫn ghi tên ba
tác giả, nối
hai tác giả đầu bằng dấu phẩy, tác giả thứ ba
bằng dấu
"&", năm xuất bản sau tên tác giả cuối
cùng,
không có dấu phẩy,
- tài liệu của ba
tác giả ở lần
trích dẫn thứ hai, và tài liệu của bốn
tác
giả trở lên, ghi tên tác giả đầu
và "et al."
(gốc Latin et alli,
nghĩa là "và những người khác")
và năm xuất bản;
- nếu một mẩu trích dẫn từ
nhiều tài
liệu của một người/nhóm, ghi tên
người/nhóm
đó trong ngoặc đơn, theo sau bằng năm xuất bản của tất cả
các tài liệu theo đúng thứ tự
và
cách ghi trong danh mục tham khảo, giữa các năm
cách nhau bằng dấu phẩy (nhưng chỉ là khoảng
trắng
giữa năm đầu tiên
và tác giả sau cùng),
- nếu mẩu trích dẫn
có nguồn gốc từ
nhiều tài liệu, tất cả các tác giả
tài liệu
được ghi trong một cặp ngoặc đơn liền sau, giữa mỗi tác
giả/nhóm tác giả của một tài liệu
cách nhau
bằng dấu chấm phẩy, cách ghi tên tác
giả và
năm xuất bản cho mỗi người/nhóm giống như trên;
- kiểu
hỗn hợp thứ tự số - chữ cái: cũng là
một biến thể của kiểu Harvard,
- danh mục tham khảo trình
bày theo thứ tự chữ cái như kiểu Harvard, nhưng
có đánh số thứ tự,
- khi trích dẫn,
không ghi tên
tác giả và năm, chỉ ghi (trong ngoặc đơn hoặc
ngoặc
vuông) số thứ tự trong danh mục tham khảo, tương tự như kiểu
Vancouver.
Khi nào trích dẫn và
khi nào không trích dẫn?
Dù có quy định chi
tiết, nhưng
không phải luôn trích dẫn bất
kì thế
nào. Nên trích dẫn để:
- bảo vệ quan điểm, luận cứ khoa học;
- nêu ví dụ, kết quả
đã được kiểm chứng, thừa nhận;
- tóm tắt các
ý kiến, giả thuyết, kết luận của các
tác giả khác.
Không nên
trích dẫn:
- những chi tiết nhỏ;
- nguyên văn các đoạn
dài vốn
có thể tóm tắt ngắn gọn hoặc lược bỏ
các ý
không cần thiết;
- những ý có thể tự
diễn đạt mà không lấy từ ý tưởng của
người khác;
- những kinh nghiệm, ghi nhận,
ý kiến của bản thân (trừ khi từ các
tài liệu đã công bố);
- những kiến thức đã trở
thành phổ thông.
|