Giới
thiệu giáo
trình
Tác
giả
Kiểm
tra đầu vào
Phần
1. Các bước triển khai
một đề tài nghiên cứu khoa học
Phần
2. Phương pháp
tìm kiếm tài liệu tham khảo khoa học
Phần
3. Khai thác
thông tin từ tài liệu khoa học
Phần
4. Phương
pháp viết tài liệu khoa học
Phần
5. Kĩ thuật soạn thảo
tài liệu khoa học
Kiểm
tra đầu ra
Phản
hồi kết quả
Thư mục |
Phần
4. Phương pháp viết tài liệu khoa học
Phát
triển ý
tưởng từ dàn ý
Khai tập
Các thành phần trong khai tập cần được
cập nhật thường xuyên trong quá trình phát
triển và chỉnh sửa bài viết, đặc biệt là vị
trí các bảng, hình, các kí hiệu
và chữ viết tắt. Trang bìa và mục lục có
thể hoàn tất sau khi đã sửa xong tất cả các phần
khác. Các điểm cần chú ý phát triển
trong phần này chủ yếu là sử dụng các định dạng
phù hợp để trình bày các trang khai tập.
- Trang bìa: cấu trúc trang bìa luận văn thông thường như sau:
* Dòng 3 chỉ dùng với luận văn bậc đại học
* 1/5 dọc trang ==>
* 1/3 dọc trang ==>
* 1/2 dọc trang ==>
* 2/3 dọc trang ==>
Dòng kề cuối trang |
BỘ CHỦ QUẢN
TRƯỜNG/VIỆN
KHOA
HỌ VÀ TÊN TÁC GIẢ
TÊN ĐỀ TÀI
CẤP ĐỘ ĐỀ TÀI VÀ CHUYÊN NGÀNH
MÃ SỐ (NẾU CÓ)
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TỈNH THÀNH, THÁNG/NĂM
|
- Lời cảm ơn:
phần này thể hiện một phép lịch sự, là nơi
bày tỏ lòng biết ơn đối với những người đã
giúp tác giả trong quá trình thực hiện đề
tài nghiên cứu: cung cấp thông tin; trả lời tư vấn;
thực hiện điều tra, thí nghiệm;...
- Có thể cảm ơn bằng cách gửi một bản
báo cáo và viết tay lời đề tặng trực tiếp ở trang
lót.
- Với những người cần cảm ơn chính thức,
ngoài mục đích tri ân còn có thể cung
cấp thông tin để người khác có thể tìm được
sự giúp đỡ tương tự, một trang cảm ơn in sẵn được đặt ngay sau
trang lót hay trang nhan đề.
- Không nên viết lời cảm ơn quá
dài và quá cầu kì. Thường chỉ cần và
nên giới hạn trong một trang để cảm ơn những ai đã mang
lại sự giúp đỡ thực sự có ý nghĩa đối với
chính đề tài đã thực hiện.
- Ngôi thứ tác giả sử dụng để tự xưng
danh trong lời cảm ơn thường là "tôi" hoặc "chúng
tôi". Nên tránh các ngôi thứ thể hiện
lễ phép giao tiếp với người lớn như "em", "con",
"cháu",...
- Nên dành những khoảng trống rộng ở
đầu trang, cuối trang và hai biên; dành từng
đoạn văn bản để cảm ơn từng (nhóm) người, theo thứ tự quan trọng
giảm dần, trừ người thân trong gia đình đặt ở cuối
cùng; khoảng cách giữa các đoạn vừa phải, đủ để
làm nổi bật và cho thấy sự trân trọng với từng lời cảm ơn.
- Trong mỗi lời cảm ơn, ghi danh xưng đầy đủ của
(nhóm) người được cảm ơn, có mô tả vắn tắt những sự
giúp đỡ của họ. Cách sắp xếp ý trước sau trong
từng lời cảm ơn có thể linh động tuỳ người viết, sao cho đầy đủ
mà súc tích, đơn giản mà không đơn
điệu.
- Mục lục: nên sử dụng kĩ thuật lập mục lục tự động
để liệt kê và cập nhật một cách đầy đủ và
chính xác tất cả các đề mục có trong
bài.
- Kể từ mục lục trở đi cho đến hết phần khai tập,
các trang được đánh số thứ tự bằng số La Mã, chữ
thường: i, ii, iii, iv, v, vi,...
- Các đề mục trong bài không
nên vượt quá bốn cấp. Các đề mục từ cấp thứ tư trở
đi có thể không liệt kê vào mục lục vì
sẽ làm nặng nề và rối rắm một cách không cần
thiết.
- Tên mỗi đề mục không có dấu
chấm hết ở cuối. Và nếu tên đề mục dài quá
hai dòng thì canh biên trái và
phải sao cho không chèn vào phần số trang và
số thứ tự đề mục.
- Danh mục hình: nên thống nhất theo thông lệ quốc tế, dùng "hình" (figure)
cho tất cả các yếu tố đồ hoạ (ảnh chụp, hình vẽ, biểu đồ, sơ đồ,
bản đồ,...) được sử dụng bên trong hoặc kèm theo luận
văn. Để không bị thiếu sót hay mất nhiều thời gian chỉnh
sửa, cập nhật, tốt nhất là dùng các kĩ thuật định
dạng tự động cho danh mục này.
- Hình được đánh số liên tục
trong cả bài hoặc liên tục trong từng phần/chương. Nếu
đánh số theo từng phần/chương, số thứ tự của mỗi hình
phải được kèm trước bằng số thứ tự của phần/chương tương ứng.
Người viết phải chọn một cách thống nhất trong cả bài.
- Hình được đặt tên sao cho thể hiện
được nội dung chính muốn truyền đạt trong hình, và
phải được dẫn ra (bằng số thứ tự hình) ít nhất một lần trong bài chính. Vị trí tên hình trong bài viết là ở ngay dưới hình.
- Tên hình trong danh mục hình
không có dấu chấm hết ở cuối, và hai
biên không chèn vào phần số trang
và số thứ tự hình.
- Danh mục bảng:
cũng tương tự như danh mục hình, có thể sử dụng
các tính năng của trình xử lí văn bản để
định dạng tự động danh mục này, thay vì phải chỉnh sửa
thủ công mỗi lần cập nhật, đặc biệt là khi số trang thay
đổi.
- Các quy định cho tên bảng cũng giống
như đối với tên hình, chỉ khác ở một điểm:
tên bảng được đặt ở ngay trên bảng.
- Kí hiệu và chữ viết tắt:
danh mục này nên được liệt kê và cập nhật
liên tục trong quá trình viết bài, ngay khi
có sử dụng từ viết tắt hay kí hiệu ở bất cứ vị trí
nào của bài viết. Danh mục này chỉ cần hai cột:
cột đầu cho chữ viết tắt hoặc kí hiệu; cột thứ hai cho phần giải
thích đầy đủ. Không cần đánh số trang của
các chữ viết tắt hay kí hiệu được dùng trong
bài chính.
Bài tập tự kiểm tra
|