KhoahọcViệt.info

  • Increase font size
  • Default font size
  • Decrease font size

Dấu chấm nhỏ, câu hỏi lớn

Mấy ngày nay dư luận đang xôn xao bàn tán về một cuộc toạ đàm do một viện kiểm sát cấp quận ở miền Trung tổ chức, bàn về việc viết hoa hay viết thường sau dấu hai chấm. Lí do tổ chức toạ đàm là Nghị định 30/2020/NĐ-CP về công tác văn thư (NĐ30) đã bỏ quy định bắt buộc viết hoa chữ cái đầu âm tiết sau dấu hai chấm, khác với các quy định trước đó trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện vẫn còn hiệu lực. Hai quan điểm chủ yếu được đưa ra tại buổi toạ đàm là tuỳ nghi theo NĐ30 hoặc thống nhất viết hoa cho đẹp. Câu chuyện tưởng chỉ một dấu chấm nhỏ, nhưng lại làm lộ ra phía sau một câu hỏi lớn.

Từ hơn 15 năm trước trong một đề tài nghiên cứu về soạn thảo tài liệu khoa học, tôi nhận thấy cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp đều có những bộ quy tắc nhập liệu (tiếng Anh: style guide; tiếng Pháp: code typographique) rất đầy đủ, rõ ràng, chặt chẽ. Nhưng trong tiếng Việt thì chỉ có những quy định rời rạc, riêng rẽ trong vài lĩnh vực đặc thù, chủ yếu là ngôn ngữ và hành chính. Đương thời, một chuyên gia ngôn ngữ học là cố Giáo sư Cao Xuân Hạo đã viết một cách chua chát: “ở ta có hai ngành mà nhiều người quan niệm là không cần học một chữ nào cũng có thể làm được: đó là Văn và Ngữ. Cho nên tình trạng lạc hậu của hai ngành này là khó tránh khỏi.[i] Từ đó đến nay, rất nhiều cuộc bàn luận về tiếng Việt, với mục đích cao đẹp là giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, đã không ngừng nổi lên rồi lắng xuống. Nhưng dường như tất cả vẫn chưa thoát khỏi nhận định nói trên, vì tiếng nói của những người không có chuyên môn sâu về ngôn ngữ học thường lấn át ý kiến của những người có kiến thức và kinh nghiệm thực thụ trong lĩnh vực này.

Nhìn ra thế giới, mỗi khối ngôn ngữ lớn như tiếng Anh và tiếng Pháp có đến hàng chục bộ quy tắc nhập liệu khác nhau, có bộ ra đời từ cả trăm năm trước. Như ở Anh có bộ Hart’s Rules for Compositors and Readers at the University Press, Oxford (Quy tắc Hart dành cho người soạn thảo và bạn đọc Nhà xuất bản Đại học Oxford) công bố lần đầu năm 1893. Sau 92 ấn bản suốt hơn một thế kỉ, bộ quy tắc này càng hoàn thiện hơn và phát triển thành một bộ quy tắc mới áp dụng từ năm 2005. Dù do một nhà xuất bản đại học ban hành, bộ quy tắc này được nhiều người nhiều nơi áp dụng rộng rãi do tính đầy đủ, chặt chẽ và nhất quán của nó. Tương tự, ở Mỹ bộ The Chicago Manual of Style (Sổ tay quy tắc nhập liệu Chicago) được Nhà xuất bản Đại học Chicago công bố lần đầu năm 1906, đến nay đã phát triển đến phiên bản thứ 17, cũng là một trong những bộ quy tắc nhập liệu (cùng với quy tắc trình bày trích dẫn khoa học) được áp dụng rộng rãi không chỉ tại Mỹ mà còn ở khắp nơi trên thế giới.

Ở Pháp, bộ quy tắc nhập liệu đầu tiên là do Hội ái hữu các giám đốc, thợ xếp chữ và thợ sửa bản in ngành in Pháp ban hành năm 1928, có tên là “Code typographique” (Quy tắc nhập liệu). Đến năm 1997 thì tổ chức phụ trách bộ quy tắc này là Liên đoàn truyền thông thuộc Tổng Liên đoàn cán bộ lãnh đạo (CFE-CGC) đã phát triển phiên bản thứ 18 dưới tên gọi “Nouveau Code typographique” (Quy tắc nhập liệu mới). Bên cạnh đó, còn có quyển “Lexique des règles typographiques en usage à l'Imprimerie nationale” (Sổ tay quy tắc nhập liệu áp dụng tại Nhà in Quốc gia), phát hành lần đầu năm 1971, sau đó hoàn thiện dần đến phiên bản thứ 5 vào năm 2002. Đây là hai bộ quy tắc nhập liệu được áp dụng nhiều nhất trong các hệ thống xuất bản cả dưới định dạng giấy lẫn định dạng điện tử tại Pháp.

Không chỉ tại hai nước nói trên, mà còn nhiều nước khác cũng có các bộ quy tắc nhập liệu khác nhau. Cả Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế (ISO) cũng có một loạt các bộ tiêu chuẩn riêng biệt liên quan đến các quy tắc nhập liệu như trình bày trích dẫn khoa học, viết tắt, trình bày số và đơn vị đo lường, đánh số đề mục, v.v. Dù tương đối đa dạng, nhưng điểm chung của các bộ quy tắc nhập liệu nói trên là tính toàn diện, đầy đủ và nhất quán trong nội tại, về các nhóm chủ đề chính như sau: ngữ pháp và chính tả; viết hoa và viết tắt; dấu câu và kí hiệu; thời gian; đơn vị đo lường và công thức toán học. Một điểm nữa là các bộ quy tắc này chỉ mang tính khuyến cáo của một bộ tiêu chuẩn, chứ không có tính bắt buộc như một quy chuẩn. Do đó, mỗi nhóm ngành nghề hay tổ chức có thể có những lựa chọn cụ thể khác nhau tuỳ theo bộ quy tắc nào phù hợp hơn, nhưng nhìn chung những điểm giống nhau giữa các bộ quy tắc này cho phép giải quyết được phần lớn các tình huống trình bày văn bản. Những điểm khác biệt còn lại chủ yếu là các vấn đề kĩ thuật cụ thể, thường không ảnh hưởng nhiều đến sự nhất quán tổng thể trong từng lĩnh vực hay hệ thống tổ chức. Mỗi bộ quy tắc thường được một tổ chức duy nhất biên soạn, thường xuyên cập nhật, bổ sung những tình huống phát sinh chưa được bao quát trong phiên bản trước đó, vừa bảo đảm tính ổn định vừa duy trì được sức sống của các quy tắc đặt ra trong các bối cảnh mới không ngừng biến đổi.

Quay lại Việt Nam, nguồn gốc ban đầu vốn là viết thường sau dấu hai chấm theo kiểu Pháp[ii]. Không chỉ thế, nếu viết đúng kiểu Pháp thì trước dấu hai chấm phải có một dấu cách (khoảng trắng), như thường gặp trong các bộ sách giáo khoa của NXB Giáo dục theo các quy định riêng của ngành giáo dục. Tuy nhiên, từ thập niên 2000, một số văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là khi hướng dẫn thi hành Nghị định số 110/2004/NĐ-CP về công tác văn thư, đã bắt đầu có quy định sau dấu hai chấm trong cùng câu phải viết hoa âm tiết đầu, thường gặp trong các quy tắc nhập liệu văn bản kiểu Anh-Mỹ. Sau nhiều năm áp dụng cách viết này, không hiểu sao văn bản mới nhất là NĐ30 lại không còn bắt buộc nữa, mà cũng không vô hiệu hoá một số văn bản quy phạm pháp luật trước kia có quy định ngược lại. Kết quả là, mỗi người có thể hiểu một kiểu, ai cũng có lí của mình và đều có căn cứ pháp lí hẳn hoi.

Vấn đề là không chỉ mỗi cái dấu hai chấm. Các văn bản quy phạm pháp luật này mặc dù có tính ràng buộc cao, nhưng lại thường chỉ quy định sơ sài một số điểm (dường như) do người khởi thảo văn bản có nghĩ đến, mà thiếu vắng hẳn chất xám chuyên gia thực thụ, dẫn đến không bao quát hoàn chỉnh mọi mặt như các bộ quy tắc nhập liệu tiếng Anh hay tiếng Pháp. Quy định của ngành này chưa chắc đã được ngành khác đưa vào áp dụng. Thậm chí ngay trong cùng lĩnh vực, dù ở trên ban hành quy định như thế này, nhưng các bộ phận thực thi bên dưới hoàn toàn có thể làm thế khác. Dễ thấy nhất là các quy tắc chính tả mà các nhà ngôn ngữ học đã dày công nghiên cứu, biên soạn và hệ thống hoá, hay cách ghi các đơn vị đo lường chính thức theo Nghị định số 134/2007/NĐ-CP, hầu như không được tôn trọng trong hệ thống các văn bản hành chính của các cơ quan Nhà nước, không ít các ấn phẩm tài liệu khoa học, cũng như là trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Đó là chưa kể đến những vấn đề phức tạp hơn mà bản thân giới chuyên môn ngôn ngữ học còn chưa ngã ngũ, như cách viết I/Y, vị trí đặt dấu thanh, cách ghi tên riêng và nhập nội thuật ngữ tiếng nước ngoài, v.v. Vẫn là cố Giáo sư Cao Xuân Hạo trong cùng bài viết nêu trên đã cảm thán: “trong đội ngũ ngôn ngữ học của chúng tôi cứ mỗi người là một phái, không ai chịu nghe ai, không ai tranh luận với ai, vì sợ “động chạm” đến người khác và do đó người khác sẽ “động chạm” đến mình.” Mở rộng ra các lĩnh vực khác và trong toàn xã hội, không chỉ có hiện tượng “mỗi người một phái, không ai chịu nghe ai”, mà còn có thêm các “trường phái” thờ ơ dễ dãi (viết sao cũng được, miễn nói ra đọc ra hiểu được là xong), cách tân quá mức (thay đổi những cách viết đã có sự ổn định cao), bảo thủ cực đoan (Việt hoá triệt để các từ mượn tiếng nước ngoài)… Tất cả đã góp phần tạo nên bức tranh hỗn tạp cho một loại ngôn ngữ đặc biệt giàu và đẹp như tiếng Việt. Ai sẽ là người cầm trịch để khắc phục tình trạng này? Đó là một câu hỏi lớn mà để tìm được lời giải đáp không hẳn là không có cách, xét tới kinh nghiệm của các bộ quy tắc nhập liệu quốc tế. Quan trọng là các cơ quan hữu trách có quyết tâm thực hiện hay không mà thôi.

[Đây là bản gốc của bài đã đăng trên chuyên mục Góc nhìn, báo điện tử VNExpress, ngày 10/10/2023, dưới tựa “Tọa đàm về dấu hai chấm”, với một số chỗ đã được biên tập lại.]


[i] Cao Xuân Hạo. “Mạnh hơn bão táp”. Đăng lần đầu trên tuần báo Văn nghệ, số 4 (2088), ngày 22/01/2000. In lại trong Tiếng Việt. Văn Việt. Người Việt (in lần thứ ba), NXB Trẻ, 2003, tr. 13-23.

[ii] Trung tâm KHXH&NV Quốc gia. Ngữ pháp tiếng Việt. NXB Khoa học Xã hội, 2002, tr. 287-292.

Lời bình
Bình luận Tìm kiếm
Viết lời bình
Tên:
Điện thư:
 
Website:
Tựa:
UBBCode:
[b] [i] [u] [url] [quote] [code] [img] 
 
 
:D:):(:0:shock::confused:8):lol::x:P
:oops::cry::evil::twisted::roll::wink::!::?::idea::arrow:
 
Xin vui lòng nhập mã chống spam trong hình bên cạnh.

3.21 Copyright (C) 2007 Alain Georgette / Copyright (C) 2006 Frantisek Hliva. All rights reserved."

 

Tìm kiếm