KhoahọcViệt.info

  • Increase font size
  • Default font size
  • Decrease font size

Đào tạo tiến sĩ: Tiêu chuẩn, thước đo, niềm tin và trách nhiệm

Cách đây một năm, bản quy chế tuyển sinh và đào tạo tiến sĩ ban hành theo Thông tư số 18/2021/TT-BGDDT đã gây xôn xao dư luận, với nhiều ý kiến trái chiều cả trên báo chí lẫn mạng xã hội. Câu chuyện lắng đi một thời gian rồi lại bùng lên với kết quả thanh tra hoạt động nghiên cứu và đào tạo tại Học viện Khoa học xã hội. Khi bàn đến chất lượng các luận án “tiến sĩ cầu lông” thì hầu hết đều đồng ý là có vấn đề về tiêu chuẩn đánh giá, mà một số người cho rằng nguyên nhân xuất phát từ việc Thông tư 18 đã hạ thấp thước đo chất lượng. Từ góc độ quan sát của mình, người viết nhận thấy có bốn điểm cần chú ý trong toàn bộ câu chuyện này, đó là: tiêu chuẩn (về chất lượng nghiên cứu), thước đo (định lượng sản phẩm nghiên cứu), niềm tin (của cộng đồng khoa học) và trách nghiệm (của những người trong cuộc).

Bản thảo gốc của bài viết đã đăng thành 2 kì trên tạp chí Người Đô Thị:

Mục lục bài viết

Tiêu chuẩn đánh giá tiến sĩ

Để đánh giá chất lượng đầu ra trong đào tạo tiến sĩ, trước tiên cần phân biệt các loại văn bằng tiến sĩ. Trên thế giới hiện nay có hai nhóm văn bằng tiến sĩ chính: một nhóm theo hướng nghiên cứu theo cách hiểu phổ biến, với văn bằng PhD (Doctor of Phylosophy) hoặc tương đương; một nhóm theo hướng thực hành nghề nghiệp trong một số lĩnh vực đặc thù như nghệ thuật (Doctor of Creative Arts – DCA), giáo dục (Doctor of Education – EdD), quản trị (Doctor of Business Administration – DBA), luật (Doctor of Juridical Science/Studies - SJD)[i]… Với nhóm văn bằng theo hướng nghiên cứu, dù có học kèm một số nội dung khác hay không, kết quả học tập được trình bày dưới dạng một luận án và được bảo vệ trước một hội đồng khoa học; tuỳ quốc gia và tuỳ cơ sở đào tạo mà có thể có thêm yêu cầu xuất bản hay không. Còn với nhóm văn bằng theo hướng thực hành nghề nghiệp, cách thức đánh giá kết quả học tập thay đổi tuỳ theo đơn vị đào tạo nhưng phần lớn chỉ gồm các môn học có thi hết môn, dù một vài nơi có thể có yêu cầu nghiên cứu hoặc xuất bản.

Ở Việt Nam hiện nay, có lẽ đã có nhiều người đang sở hữu các loại văn bằng khác nhau như trên, nhưng đều được gọi chung là “tiến sĩ” mà không có sự phân biệt rạch ròi. Trong các văn bản pháp luật về giáo dục nói chung và giáo dục đại học nói riêng cũng chưa phân định rõ các nhóm văn bằng này. Trong Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân và Khung trình độ quốc gia Việt Nam cùng ban hành năm 2016, bậc đào tạo tiến sĩ được định nghĩa theo hướng tương tự với nhóm văn bằng PhD của thế giới. Thông tư 18 cũng thể hiện rõ nét hơn hướng định nghĩa này, với yêu cầu “nghiên cứu khoa học là thành phần chính yếu và bắt buộc trong chương trình”.

Tuy nhiên, vấn đề liên quan đến các văn bằng thuộc nhóm thứ hai thì vẫn còn bỏ ngỏ. Đó là chưa kể đến yếu tố lịch sử để lại, không ít người được cấp các văn bằng vốn không phải là nghiên cứu mà được mặc nhiên “nâng cấp” thành tiến sĩ để làm nghiên cứu hay quản lí, điều hành công tác nghiên cứu. Việc không xác định rõ khả năng nghiên cứu của người mang các văn bằng này, do không có cùng tiêu chuẩn đánh giá, sẽ có ảnh hưởng đến quá trình thực thi quy chế. Bởi lẽ, nếu không có kinh nghiệm học và làm nghiên cứu thực tế theo các chuẩn mực chung thì sẽ khó lòng bảo đảm được chất lượng hướng dẫn nghiên cứu sinh trong một chương trình đào tạo tiến sĩ.

Chất lượng đào tạo tiến sĩ theo hướng nghiên cứu được thể hiện ở sản phẩm đầu ra, gồm ba loại chính: bài viết luận án, bài thuyết trình bảo vệ luận án, và các công trình xuất bản liên quan đến luận án. Với bài viết luận án, tất cả đều cần được phản biện độc lập, nhưng người phản biện có thể cùng hay khác trường (Hoa Kỳ), hoặc bắt buộc có một hoặc hai phản biện ngoài trường (Canada, châu Âu, Úc). Với bài thuyết trình bảo vệ luận án, đó là thủ tục bắt buộc ở Bắc Mỹ, châu Âu và New Zealand, nhưng không bắt buộc ở Úc, Brazil, Ấn Độ, Malaysia và Nam Phi. Với các công trình xuất bản liên quan đến luận án, cũng tuỳ quốc gia và cơ sở đào tạo mà có yêu cầu bắt buộc số bài báo đăng tạp chí có bình duyệt (peer-review) hay không. Ở một số nước như Hà Lan, Đan Mạch, nghiên cứu sinh có thể công bố kết quả nghiên cứu dưới dạng các bài báo, sau đó ghép lại, bổ sung phần mở đầu và kết luận để tạo thành luận án[ii].

Đối với hai loại sản phẩm đầu là bài viết luận án và bài thuyết trình bảo vệ luận án, các quy định của Thông tư 18 tương đối gần với thông lệ quốc tế hiện nay. Chỉ duy nhất ở loại sản phẩm bài báo của nghiên cứu sinh là gặp nhiều ý kiến trái chiều. Tất cả gần như đều xoay quanh những con số được dùng làm thước đo chất lượng luận án tiến sĩ.

Thước đo chất lượng luận án tiến sĩ

Có hai con số được nhiều người quan tâm: số bài báo mà nghiên cứu sinh phải công bố trên các tạp chí khoa học thuộc các danh mục ISI hay SCOPUS; và số điểm mà Hội đồng Giáo sư nhà nước (HĐGSNN) gán cho một tạp chí khoa học trong nước để xếp vào nhóm đạt yêu cầu công bố của nghiên cứu sinh trước khi bảo vệ luận án. Quy chế đào tạo tiến sĩ cũ ban hành năm 2017 được nhiều người đánh giá là tiến bộ vì bắt buộc chỉ khi có công bố tối thiểu 2 bài báo, trong đó có 1 bài đăng trên các tạp chí ISI/SCOPUS thì nghiên cứu sinh mới đạt tiêu chuẩn chất lượng. Quy chế mới không ràng buộc số lượng 1 hay 2 bài báo mà thay bằng tổng điểm (từ 2,0 trở lên) các công trình xuất bản, chấp nhận cả các chương sách tham khảo do các nhà xuất bản quốc tế có uy tín phát hành và các bài báo đăng tạp chí khoa học trong nước thuộc “hạng” 0,75 điểm do HĐGSNN quy định.

Với các tạp chí ISI/SCOPUS, giả định chung là bài đăng ở đây có chất lượng được công nhận ở tầm quốc tế. Tuy nhiên, bản chất các danh mục tạp chí ISI/SCOPUS được xây dựng dựa trên chỉ số tác động (impact factor – IF), bằng cách lấy tổng số bài báo được trích dẫn của một tạp chí chia cho tổng số bài báo mà tạp chí đó xuất bản trong cùng một quãng thời gian. Một tạp chí có IF cao cho thấy trên tổng thể tạp chí ấy có ảnh hưởng vì được trích dẫn nhiều, nhưng hoàn toàn không phải là cơ sở để xác định chất lượng của một bài báo cụ thể.

Ngay cả khi xem IF là chất lượng chung của tạp chí, thì đây cũng là một giả định tương đối hạn chế mà khoa học đo lường thư mục đã phân tích và đánh giá từ nhiều năm nay. Một nghiên cứu trên số bài đăng của 11 tạp chí khoa học trong hai năm 2013-2014 cho thấy phần lớn các bài báo đều có số lượt trích dẫn thấp hơn chỉ số IF của tạp chí đó. Kể cả hai tạp chí hàng đầu là Nature (IF = 38,1) và Science (IF = 34,7) cũng chỉ có khoảng ¼ số bài báo được trích dẫn nhiều nhất “kéo” chỉ số này lên cao, và ¾ số còn lại là từ vừa đến thấp[iii]. Thậm chí, có nguồn nghiên cứu trước đó còn xác định rằng hơn 50 % số bài đăng trên tạp chí Nature từ 2008 đến 2010 hoàn toàn không được trích dẫn hay chỉ được trích dẫn duy nhất 1 lần[iv].

Nói một cách nôm na, lấy IF của một tạp chí để xác định chất lượng một bài báo cũng giống như lấy tài sản của những người giàu nhất cộng với tài sản của những người nghèo nhất của một cộng đồng dân cư rồi chia trung bình để xem đấy là giá trị tài sản chung của bất cứ một cá nhân nào trong cộng đồng đó. Dĩ nhiên, các tạp chí có IF cao thường có hệ thống bình duyệt tốt, quy trình xuất bản nghiêm ngặt, nên các công trình được duyệt đăng cũng phải đáp ứng những tiêu chí đánh giá nhất định của các tạp chí ấy. Nhưng xem đó là tiêu chí duy nhất và cứng nhắc để quy đổi thành chất lượng là một sai lầm; dù vậy, đây là cách được ưa chuộng bởi đơn giản và dễ phân thứ hạng. Quy đổi thành một con số định lượng do một bên độc lập cung cấp, thế là xong, không phải bàn cãi tranh luận đánh giá định tính vốn là chuyện luôn đòi hỏi nhiều thứ, không chỉ ở trình độ (tức là tiêu chuẩn đã nói ở trên) mà còn ở niềm tin và trách nhiệm của cá nhân các nhà khoa học và của cả cộng đồng.

Tương tự, các con số thể hiện mức điểm gán cho các tạp chí khoa học trong nước của HĐGSNN cũng thể hiện xu hướng đo lường chất lượng các công trình khoa học bằng những con số định lượng chính xác. Tuy nhiên, khác với IF có cách đo lường và thu thập dữ liệu rất rõ ràng và minh bạch, không ai biết các mức điểm của HĐGSNN được xây dựng dựa trên tiêu chí gì. Thông thường, trong mỗi ngành đều có 4 nhóm tạp chí với các mức điểm: [1] từ 0 đến 1; [2] từ 0 đến 0,75; [3] từ 0 đến 0,5 và [4] từ 0 đến 0,25. Có nghĩa là, bài đăng trên bất cứ tạp chí nào từ nhóm 1 đến nhóm 4 cũng đều có thể bị điểm 0 hoặc chỉ được 0,25, tuỳ theo nhận định của người xét hồ sơ của ứng viên. Và khi nào được điểm tối đa ở mỗi nhóm, khi nào bị chấm thấp hơn, hay vì sao một bài nhóm trên có thể nhận ít điểm hơn một bài nhóm dưới, cũng không có một căn cứ nào rõ ràng.

Chính vì vậy mà từ một thang điểm định lượng có vẻ hết sức chính xác, cụ thể, biên độ diễn giải khác biệt lại trở nên dàn trải, mù mờ, tạo nên những “vùng xám” nhiều khi rất khó hiểu và ít nhiều nhạy cảm. Ở các đợt xét hồ sơ GS-PGS, các thành viên hội đồng giữ vai trò cho điểm các công trình, và sự công tâm của họ quyết định độ chính xác của mức điểm chấm cho ứng viên. Nhưng ở Thông tư 18, không có chỗ nào ghi rõ ai là người cho điểm, mà ghi “các công bố phải đạt tổng điểm từ 2,0 trở lên tính theo điểm tối đa”, có thể được hiểu là hễ có bài đăng trong nhóm tạp chí nào thì sẽ đạt mức điểm tối đa của nhóm tạp chí ấy.

Tức là, cách tính điểm này khác biệt hoàn toàn so với cách làm nguyên thuỷ của bảng danh mục tạp chí HĐGSNN. Có lẽ, đây lại càng là một yếu tố làm tăng độ nghi ngờ và giảm niềm tin của không ít nhà khoa học có quan tâm thực sự đến chất lượng của các công bố khoa học trong nước. Hàng loạt luận án tiến sĩ hay đề tài khoa học được bảo vệ hoàn tất, tức là có đầy đủ điểm số công trình theo quy định (trên giấy), mà vẫn gây bất bình trong dư luận vì không ứng với chuẩn mực đào tạo tiến sĩ và nghiên cứu khoa học (trong thực tế) của thế giới tiến bộ.

Niềm tin cộng đồng khoa học

Những ý kiến trái chiều về quy chế đào tạo tiến sĩ theo Thông tư 18 biểu hiện các nhóm thái độ tương phản về niềm tin của cộng đồng khoa học Việt Nam. Một bộ phận tin rằng mình sẽ được “cởi trói”, được giao quyền tự chủ nhiều hơn, được đặt niềm tin cao hơn, và biểu lộ sự sẵn sàng tâm thế để thay đổi theo chiều hướng tích cực. Không chỉ trong việc đào tạo tiến sĩ mà cả trong việc nâng cao chất lượng và vị thế của các tạp chí khoa học trong nước. Một bộ phận khác thì ngược lại, thể hiện sự thất vọng vì cho rằng bỏ qua yêu cầu bắt buộc công bố quốc tế là một bước đi lùi, tạo cơ hội cho các “lò ấp tiến sĩ” nở rộ trở lại (câu chuyện “tiến sĩ cầu lông” hôm nay là một minh chứng). Thậm chí họ hoàn toàn không tin tưởng rằng các tạp chí trong nước, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học xã hội (KHXH), có khả năng thay đổi theo chiều hướng tích cực như nhóm thứ nhất kì vọng.

Ở đây, cần phải nói ngay rằng việc lạm dụng chỉ số tác động (IF) để đánh giá chất lượng bài báo khoa học đã đến đến hệ luỵ về việc gian lận trong công bố quốc tế, với nhiều minh chứng khó chối cãi đã được đưa ra công luận trong thời gian gần đây. Không phụ thuộc một cách máy móc vào IF, các tạp chí trong nước sẽ có cơ hội chuyển mình nhờ được công nhận đạt yêu cầu công bố trước khi bảo vệ luận án tiến sĩ. Vì thực chất, một bài báo nghiên cứu đăng ở một tạp chí trong nước không nhất thiết là kém chất lượng; cũng như là, một bài đăng ở một tạp chí nước ngoài không đương nhiên có chất lượng tốt hơn.

Ví dụ, Hội đồng cấp cao về đánh giá khoa học và giáo dục đại học (HCÉRES) của Pháp mỗi năm đánh giá chất lượng của hàng chục trường đại học và hàng trăm đơn vị nghiên cứu trên khắp nước Pháp. Mỗi hội đồng ngành đều biên soạn các tài liệu hướng dẫn và mô tả chi tiết các sản phẩm khoa học nào có thể được xem xét công nhận trong lĩnh vực của mình[v]. Trong đó bao gồm rất nhiều thể loại như bài báo, sách chuyên khảo, tham luận hội thảo, bằng sáng chế, sản phẩm ứng dụng, thậm chí cả bài báo truyền bá thường thức khoa học…

Một số hội đồng có lập danh sách cụ thể hàng trăm tạp chí khác nhau thuộc nhiều quốc gia, xuất bản bằng nhiều thứ tiếng, nhưng không định ra thang điểm tuyệt đối để chấm cho mỗi bài đăng. Chất lượng hồ sơ cần được đánh giá trên tổng thể về nhiều mặt, chủ yếu định tính, dựa vào sự công tâm của chính nhà khoa học phụ trách đánh giá hồ sơ. Sự công tâm ấy thể hiện không chỉ trong hồ sơ đánh giá, mà cả trong trách nhiệm của họ đối với quyết định đánh giá khi có bất cứ vấn đề gì xảy ra trong hay sau quá trình đánh giá.

Thế nhưng, các ý kiến phản đối cho rằng dù IF của các tạp chí ISI/SCOPUS còn hạn chế thì vẫn không có cách nào đánh giá tốt hơn. Điều tréo ngoe là, nhiều người trước kia khi làm nghiên cứu sinh không phải đăng bài quốc tế mà vẫn được bảo vệ luận án, nhưng bây giờ lại kiên quyết phản đối quy chế theo Thông tư 18. Lí do chính là vì họ cho rằng môi trường giáo dục mà mình thụ hưởng ngày xưa (ở nước ngoài hay cả trong nước) vốn trong sạch, còn bây giờ thì họ không còn đủ niềm tin rằng bản quy chế này phục vụ một mục tiêu tốt đẹp trong một môi trường vẩn đục.

Sự mất mát niềm tin này dù tự mâu thuẫn một cách đáng buồn nhưng không phải không có cơ sở. Nếu xem kĩ nhiều bài báo, đặc biệt trong lĩnh vực KHXH, đăng trên các tạp chí được HĐGSNN xếp hạng 1, thì thấy rằng chất lượng rất đáng bàn nếu so với các tiêu chuẩn nghiên cứu quốc tế. Cũng như là, thật không dễ dàng tìm được lời đáp cho một câu hỏi day dứt: khi không có đủ con người đạt chuẩn khoa học quốc tế, thì làm sao có thể đủ người hướng dẫn nghiên cứu sinh hay phản biện bài báo khoa học theo các chuẩn mực ấy? Và rồi tất cả lại quẩn quanh chuyện con gà và quả trứng.

Một bên mất hẳn niềm tin vào con người, chỉ còn tin vào con số, dù là con số dễ bị gian lận giả mạo và diễn giải sai lệch. Giả sử xem một bài đăng tạp chí ISI/SCOPUS như một lượt học sinh thi đậu một trường chuyên, và mỗi lần bài báo được một tác giả khác trích dẫn là một lần học sinh ấy đạt kết quả tốt trong học tập; thì bất kể em học sinh chuyên ấy có học tốt hay không, họ vẫn cứ luôn xem là trò giỏi vì đã thi đậu đầu vào. Còn những em học sinh không vào trường chuyên, dù học ở đâu và có kết quả ở đó tốt đến thế nào, họ vẫn cứ mãi xem là trò kém vì không thi đậu trường chuyên.

Bên kia thì hết sức tin tưởng mình có thể làm tốt. Và thực tế luôn có những người nói được làm được, tạo sự tin tưởng. Nhưng trên bình diện chung, dường như họ chưa đủ khả năng thuyết phục phía đối diện trước tình trạng “vàng thau lẫn lộn”, làm sao chứng tỏ được đâu là “vàng” đâu là “thau”. Nhất là với nỗi lo “lò ấp tiến sĩ” nổi sóng dư luận một thời, bây giờ lại dậy sóng lần nữa với những luận án có tên gọi cười ra nước mắt và cách thức quản lí đào tạo đầy bất ổn, bỏ lửng lơ những câu hỏi day dứt về trách nhiệm của những người làm khoa học.

Trách nhiệm nhà khoa học

Muốn đánh giá được chất lượng thực sự của một luận án thì cần phải đọc trọn vẹn toàn văn cũng như công khai danh sách thành viên hội đồng bảo vệ, chứ không chỉ dừng lại ở tên đề tài. Giả sử, với một luận án bất kì được bảo vệ và hội đồng thông qua, chỉ cần công khai toàn văn luận án kèm danh sách chi tiết hội đồng (trừ trường hợp bảo vệ ở chế độ mật), thì bất cứ ai cũng có thể tra cứu và đánh giá chất lượng thực sự của luận án đó như thế nào. Và các thành viên trong hội đồng đương nhiên sẽ liên đới trách nhiệm nếu luận án thực sự có vấn đề về khoa học.

Khảo sát nhanh cơ sở dữ liệu luận án của cơ sở đào tạo liên quan là Học viện Khoa học Xã hội[vi], có tổng cộng 1.810 luận án của 3 niên khoá 2016, 2017 và 2018. Trong số đó, chỉ có 5 luận án đầu tiên trong danh sách là truy cập được toàn văn, số còn lại chỉ có bản tóm tắt với lí do “hết thời gian hiển thị”. Mở rộng danh sách tìm kiếm ra các cơ sở đào tạo tiến sĩ khác, có thể thấy là cách thức, nội dung trình bày cũng như phạm vi truy cập đến các luận án tiến sĩ đã bảo vệ là rất tuỳ ý. Ngay cả Thư viện Quốc gia là nơi lưu chiểu mọi bản luận án tiến sĩ thì cơ sở dữ liệu toàn văn có trên 20.000 luận án từ 1957 đến 2013[vii], nhưng trình bày cũng rất sơ sài, tìm kiếm khó khăn và chỉ cho phép xem vài trang đầu của mỗi luận án. Cơ sở dữ liệu luận án tiến sĩ của Bộ GD&ĐT cũng không khá hơn, với vẻn vẹn 2.760 luận án từ 2010 đến 2022, có thể tải toàn văn từ 2014 trở lại đây, nhưng hoàn toàn không có thông tin về thời gian và thành phần hội đồng bảo vệ[viii].

Trong khi đó, cả hai bản quy chế đào tạo tiến sĩ cũ (2017) và mới (2021) đều có quy định cơ sở đào tạo đăng toàn văn luận án tiến sĩ trong vòng 3 tháng sau khi bảo vệ xong. Xa hơn, quy chế đào tạo tiến sĩ năm 2009 còn bắt buộc công bố toàn văn luận án 30 ngày trước khi bảo vệ, cả trên website của cơ sở đào tạo lẫn của Bộ GD&ĐT. Trải qua gần 15 năm áp dụng quy chế công khai toàn văn luận án tiến sĩ (dù trước hay sau khi bảo vệ), mà giờ đây muốn biết ai học tiến sĩ ở đâu, ngành gì, do ai hướng dẫn, hội đồng bảo vệ lúc nào, thành phần tham gia gồm những ai, thì vô cùng khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả. Tương tự, muốn tìm hiểu thêm về lí lịch khoa học của người hướng dẫn, kể các thành viên HĐGSNN, thì cũng không phải dễ dàng gì. Thiển nghĩ, muốn tăng cường trách nhiệm khoa học thực sự của những người làm khoa học hay cầm cân nảy mực của cộng đồng khoa học, không có cách nào tốt hơn việc minh bạch hoá toàn bộ các thông tin này.

Nhìn sang nước Pháp, từ 2011 Bộ Giáo dục Đại học và Nghiên cứu đã cho xây dựng một cơ sở dữ liệu luận án tiến sĩ tập trung toàn quốc[ix]. Cơ sở dữ liệu này cho phép tra cứu tên bất kì nghiên cứu sinh nào đang ghi danh học tại một cơ sở đào tạo tiến sĩ của Pháp, tên các luận án đang được thực hiện, ngày bảo vệ dự kiến, danh sách người hướng dẫn luận án, tên hầu hết các luận án đã bảo vệ từ 1985 và phần lớn toàn văn các luận án đã bảo vệ từ 2011 cho đến nay (kèm ngày và danh sách hội đồng bảo vệ). Nghĩa là, muốn biết ai đã có học tiến sĩ ở Pháp hay không, chỉ cần vài phút tra cứu là biết ngay. Muốn tra cứu thử mỗi giáo sư đang hướng dẫn bao nhiêu nghiên cứu sinh, không có gì khó khăn. Hoặc muốn xem toàn văn luận án của ai đó, cũng có thể tiếp cận dễ dàng.

Nên chăng, Việt Nam hãy quyết tâm xây dựng một cơ sở dữ liệu luận án tiến sĩ tập trung như vậy, nhằm chia sẻ thông tin và dữ liệu dễ dàng giữa tất cả các cơ sở đào tạo tiến sĩ, đồng thời kiểm tra nghiêm ngặt việc tuân thủ quy định công bố toàn văn luận án tiến sĩ, không giới hạn thời gian truy cập. Khi công khai minh bạch danh sách người học tiến sĩ, người hướng dẫn luận án, người đánh giá luận án, toàn văn luận án, tra cứu thuận tiện bất cứ lúc nào, thì sẽ có cơ hội thanh lọc dễ dàng những trường hợp lạm dụng hay làm ẩu, không đảm bảo chất lượng. Qua đó, trách nhiệm từng người trong guồng máy sẽ từng bước được nâng cao. Kết quả nghiên cứu thực sự tốt thì đăng trên các tạp chí khoa học trong nước sẽ không còn là một rào cản, thậm chí còn có cơ hội được khuyến khích, phát triển.

Xét cho cùng, hai chữ “trách nhiệm” là mấu chốt của mọi điểm bất cập trong việc thực thi nghiên cứu khoa học và quy chế đào tạo tiến sĩ (dù ở bất cứ phiên bản nào). Những người làm việc thiếu trách nhiệm không bị truy cứu trách nhiệm, dẫn đến sự mất mát niềm tin của xã hội vào cộng đồng khoa học. Niềm tin đã mất mát ấy chỉ có thể cứu vãn được nếu chúng ta biết và chịu khắc phục nguyên nhân gốc rễ, bắt nguồn từ cách thức chúng ta xác định trách nhiệm của một người làm khoa học trong cộng đồng khoa học. Bắt đầu từ việc công khai một cách có hệ thống và thường trực các bản toàn văn cùng thông tin hội đồng bảo vệ luận án tiến sĩ, cũng như hồ sơ khoa học của các nhà nghiên cứu có tham gia vào quá trình đào tạo tiến sĩ./.



[i] Neumann, R. (2005). Doctoral differences: Professional doctorates and PhDs compared. Journal of Higher Education Policy and Management, 27(2), 173–188.

[ii] Bernstein, B. L., Evans, B., Fyffe, J., Halai, N., Hall, F. L., Jensen, H. S., Marsh, H., & Ortega, S. (2014). The continuing evolution of the research doctorate. In M. Nerad & B. Evans (Eds.), Globalization and its impacts on the quality of PhD education: Forces and forms in doctoral education worldwide (pp. 5–30). Sense Publishers.

[iii] Callaway, E. (2016). Publishing elite turns against controversial metric. Nature, 535(7611), 210–211.

[iv] Académie des sciences. (2011). Du bon usage de la bibliométrie pour l’évaluation individuelle des chercheurs. Institut de France.

[v] Xem chi tiết tại: https://www.hceres.fr/en/guides-research-output-and-activities

[vi] Tra cứu ngày 10/05/2022. Xem chi tiết tại: https://gass.edu.vn/SitePages/List_Thesis.aspx

[vii] Tra cứu ngày 10/05/2022. Xem chi tiết tại: http://luanan.nlv.gov.vn

[viii] Tra cứu ngày 10/05/2022. Xem chi tiết tại: https://luanvan.moet.gov.vn

[ix] Xem chi tiết tại: http://theses.fr

 


Lời bình
Bình luận Tìm kiếm
Viết lời bình
Tên:
Điện thư:
 
Website:
Tựa:
UBBCode:
[b] [i] [u] [url] [quote] [code] [img] 
 
 
:D:):(:0:shock::confused:8):lol::x:P
:oops::cry::evil::twisted::roll::wink::!::?::idea::arrow:
 
Xin vui lòng nhập mã chống spam trong hình bên cạnh.

3.21 Copyright (C) 2007 Alain Georgette / Copyright (C) 2006 Frantisek Hliva. All rights reserved."

 

Tìm kiếm